Phương pháp thi công hồ nuôi tôm
Phương pháp thi công hồ nuôi tôm tại Việt Nam ở vùng ven biển, các tỉnh miền tây có sẵn nước lợ hoặc nước biển để cung cấp cho các hồ, ao nuôi. Thêm vào đó, các vùng chiêm trũng, đầm lầy hoặc đất cát không thích hợp cho các loại cây trồng hoặc rừng trồng, nên phù hợp để đào hồ nuôi tôm cá, thủy hải sản.
Tuy vậy, các hồ, ao xây dựng trên đất đa phần có nồng độ PH thấp, không thích hợp để nuôi tôm, cá. Ngoài ra, nếu xây dựng trên đất cát thì cũng không giữ được nước. Đất hữu cơ mượn làm đất đắp nền không ổn định và có cần nhiều ôxy. Các vùng đất trũng nên các ao nuôi tôm cũng gặp khó khăn trong việc thoát nước và phơi ải sau khi thu hoạch. Đáy ao không khô hoàn toàn, sau khi nuôi tôm một vài vụ, đáy ao trở nên xấu đi và hồ ao dễ gây dịch bệnh, môi trường không đảm bảo cho canh tác nhiều vụ, phải sử dụng các loại thuốc kháng sinh hay thuốc diệt khuẩn ảnh hưởng chất lượng tôm cá.
Trong số một số phương án quản lý có thể được sử dụng là thực hành tách nước ao và đất bằng cách sử dụng tấm lót ao bằng màng chống thấm HDPE, thường đã đạt được kết quả tốt nhất, hiệu quả về chi phí trong nuôi tôm. Vật liệu nhựa HDPE đã được sử dụng từ lâu trong các hồ chứa, đập và ao cho mục đích nông nghiệp. Nhưng phải vài năm gần đây, công nghệ này mới được ứng dụng rộng rãi vào nuôi trồng thủy sản.
Vật liệu nhựa thích hợp để lót ao nuôi tôm là HDPE (polyetylen tỷ trọng cao) và poly vinyl clorua (PVC). Vì cả HDPE và PVC đều kết hợp các chất chống tia cực tím, hai vật liệu này có thể chống lại sự hư hỏng bởi tia UV, cho phép chúng tồn tại trong nhiều năm. Những vật liệu này mềm dẻo và có dạng cuộn của tấm có thể dễ dàng hợp nhất hoặc dán lại với nhau trong quá trình lắp đặt. Độ dày khuyến nghị cho lớp lót ao nuôi tôm ít nhất là 0,75 mm, và nhiều nhà cung cấp lớp lót HDPE và PVC đảm bảo sử dụng sản phẩm của họ trong điều kiện bình thường từ 5 đến 10 năm.
Ưu điểm của màng HDPE cho hồ nuôi tôm
Việc sử dụng chất dẻo để lót đáy và bờ bao ao nuôi thủy sản ngăn cản sự tiếp xúc với đất phèn để tránh độ pH trong nước và đáy ao thấp, điều này thường gây ra các vấn đề trong ao nuôi tôm, đặc biệt là trong mùa mưa.
Chất lượng nước ao nuôi được quản lý dễ dàng hơn vì không có tác động tiêu cực đến chất lượng nước ao nuôi do tiếp xúc với đất đáy và đê. Lớp lót ngăn chặn hiệu quả sự tương tác giữa đất và nước và ngăn chặn vấn đề chua của đất, ngăn chặn sự nhiễm mặn của các khu vực lân cận và kiểm soát nước thấm vào ao ở những khu vực có mực nước ngầm cao.
Các nhà lót bạt rút ngắn thời gian chuẩn bị và làm sạch ao, chỉ cần bốn đến tám ngày để hoàn thành quy trình so với 30 đến 45 ngày đối với quy trình làm sạch ao đất thông thường và quy trình phơi khô trên diện rộng. Do đó, có thể tăng số vụ nuôi trong năm để năng suất ao nuôi hàng năm cao hơn. Ngoài ra, việc thu hoạch có thể hiệu quả hơn trong mùa mưa vì ao lót bạt vẫn có thể được làm sạch. Và không yêu cầu công việc tiếp đất của máy kéo sau khi các tấm lót đã được lắp đặt xong.
Trong suốt thời gian nuôi, chất rắn lơ lửng và các chất thải khác có thể dễ dàng được loại bỏ nhờ dòng chảy tự chảy thông qua các cống thoát nước (thường ở giữa ao), do đó sẽ ít chất hữu cơ tích tụ trong ao hơn.
Các lớp lót ngăn chặn sự xói mòn của các đê và đê khỏi sóng, gió và các dòng nước do máy sục khí tạo ra, giúp giảm chi phí bảo dưỡng và sửa chữa ao. Và các ao lót bạt nói chung có thể được sục khí mạnh hơn, hỗ trợ mật độ thả và năng suất cao hơn trên một đơn vị diện tích.
Bởi vì đáy ao sạch hơn, vào thời điểm thu hoạch có ít tôm bị bẩn mang (bùn hữu cơ tích tụ) và tôm sạch hơn sẽ có giá tốt hơn.
Nhược điểm
Trước hết, chi phí đầu tư ban đầu để lót ao là cao – 10.000 đô la đến 100.000 đô la hoặc hơn – tùy thuộc vào loại lót và kích thước của ao và các yếu tố khác. Cần có lao động thủ công và / hoặc thiết bị đáng kể để làm sạch và chuẩn bị ao thích hợp trước khi chu kỳ sản xuất tiếp theo có thể tiến hành. Việc sử dụng các thiết bị nặng để làm sạch ao sau khi thu hoạch bị hạn chế do nguy cơ làm hỏng lớp lót.
Có thể khó khăn hơn để bắt đầu sự nở rộ của sinh vật phù du trong các ao có lót bạt trước khi thả tôm post. Và khi thời gian nuôi diễn ra, phốt pho tích tụ trong nước ao và sự nở hoa của thực vật phù du có xu hướng tăng lên. Điều này có thể gây ra mức độ oxy hòa tan thấp vào ban đêm và chết đi của sinh vật phù du, cũng có thể gây ra sự thiếu hụt oxy hòa tan.
Và do tần suất nở hoa của thực vật phù du thường xuyên và các vấn đề liên quan đến sự suy giảm oxy hòa tan, nên có thể cần nhiều sục khí cơ học hơn trong các ao có lót bạt so với những ao không có lót, đặc biệt là trong nửa sau của thời gian nuôi.
Phương pháp thi công hồ nuôi tôm bằng màng HDPE
Để ao được lót bạt đúng cách, phải chuẩn bị kỹ lưỡng sao cho đất mịn và nén chặt, dùng các vật liệu sắc nhọn hoặc không liên quan như đá hoặc gốc cây, cành cây cắt ngang trên bề mặt đáy ao và kéo dài lên dọc theo tất cả các bên trong. mái dốc của các bờ kè. Nếu sử dụng cống trung tâm, rất được khuyến khích, nó phải được thiết kế và lắp đặt đúng cách.
Các tấm ni lông phải được lót dọc theo bề mặt nhẵn của đáy ao và bờ đê, đồng thời phải cố định trên đỉnh đê bằng cách chôn các mép trong đê theo rãnh 50 cm. Đối với ao có đáy thấp hơn mực nước bên ngoài hoặc ao được xây dựng ở nơi mực nước ngầm gần bề mặt đất, có thể cần một số ống thông hơi để nước từ dưới tấm nhựa thoát ra ngoài và ngăn bong bóng hình thành và lớp lót nhựa không bị phồng lên.
Nếu có thể – như trong trường hợp ao mới được xây dựng – hình dạng ao nên được thiết kế để giảm thiểu số lượng các tấm lót nhựa cần được kết nối (hợp nhất hoặc dán lại với nhau), vì các khu vực khớp nối là phần yếu nhất của lót nhựa. Các tấm nhựa phải có đủ chồng chéo giữa chúng (khoảng 5-6 inch cho mỗi khớp) để chúng có thể được hợp nhất hoặc dán lại với nhau một cách thích hợp. Đặc biệt lưu ý khu vực cống thoát nước trung tâm và cổng dẫn nước, vì lớp nhựa lót có thể tiếp xúc với các loại vật liệu khác và dẫn đến các mối nối yếu hơn.